Sinh học Người hiện đại châu Âu sơ khai

Đặc tính thể chất

Sọ của người phụ nữ Abri Pataud

Thể tích nội sọ trung bình của 28 mẫu vật người hiện đại trong khoảng 190-25 nghìn năm trước được ước tính là 1.478 cc (90,2 in khối), và đối với mẫu hẹp hơn gồm 13 cá thể thì thể tích nội sọ trung bình là 1.514 cc (92,4 in khối). Để đối chiếu, theo một ước tính, thể tích sọ trung bình của người ngày nay là 1.350 cc (82 in khối), rõ ràng nhỏ hơn. Sở dĩ có điều này là bởi não EEMH, tuy vẫn nằm trong phạm vi khả dĩ của não người ngày nay, có chiều dài thùy trán trung bình lớn hơn và thùy chẩm ở vị trí cao hơn. Tuy nhiên, thùy đỉnh của EEMH lại khá ngắn. Không rõ liệu đặc điểm này có tạo nên sự khác biệt hành vi giữa người hiện đại thời đó và người hiện đại ngày nay hay không.[31]

Về mặt thể chất, người EEMH giống người ngày nay ở nhiều bình diện: hộp sọ hình cầu, khuôn mặt dẹt, gờ lông mày mảnh dẻ, và cằm nổi rõ. Tuy vậy, xương EEMH dày và khỏe hơn.[32] Những EEMH sớm nhất thường sở hữu các đặc điểm giống người Neanderthal.[33] Cụ thể, tộc Aurignac thể hiện nhiều tính trạng giống người Neanderthal nhất, ví dụ như chỏm sọ hơi bẹt và búi chẩm trồi ra phía sau sọ (đôi khi khá nổi bật). Các đặc điểm này ở tộc Gravette có tần suất ít đi hẳn. Trong chuyên luận hình thái học năm 2007 của mình, nhà cổ nhân học Erik Trinkaus kết luận rằng những đặc điểm như thế là kết quả của sự xâm nhập gen Neanderthal, rốt cuộc đã bị chắt lọc khỏi vốn gen của người hiện đại.[34]

Phục dựng chân dung mẫu vật Oase 2 đã 40.000 năm tuổi. Cá nhân này không có quan hệ huyết thống với bất kỳ một người còn sống nào.[35]

Ở Tây Âu hậu kỳ đá cũ sớm, vóc dáng trung bình của 20 nam và 10 nữ người hiện đại được ước tính lần lượt ở mức 176,2 cm (5 ft 9 in) và 162,9 cm (5 ft 4 in), ngang bằng người hiện đại hậu-công nghiệp. Trái lại, đối với mẫu 21 nam và 15 nữ Tây Âu hậu kỳ đá cũ muộn, mức trung bình là 165,6 cm (5 ft 5 in) và 153,5 cm (5 ft). Không rõ vì sao người EEMH cao lớn hơn, nhất là khi các động vật sống ở đới khí hậu lạnh thường có chi vận động ngắn và thấp lùn để giữ nhiều nhiệt nhất có thể. Một số giả thuyết giải thích cho điều này bao gồm: sự lưu tồn vóc dáng cao lớn của tổ tiên; chế độ ăn đủ dinh dưỡng hơn từ thịt của các loài thú mồi lớn mà về sau bị tuyệt chủng ở Châu Âu; sự thích nghi chức năng để có sải tay sải chân rộng hơn, nhằm tối ưu di chuyển để có thể bắt kịp hươu nai; tính lãnh thổ tăng cao trong các quần thể EEMH muộn làm giảm dòng gen giữa các cộng đồng và làm tăng tỉ lệ hôn phối cận huyết; thiên vị thống kê gây ra bởi cỡ mẫu nhỏ; hoặc bởi lẽ những cá nhân cao lớn thời tiền-LGM có ưu thế xã hội nên được mai táng chu toàn hơn.[29]

Trước khi ngành di truyền học phát triển như ngày nay, người ta đã từng lầm tưởng rằng EEMH có làn da màu trắng giống người Châu Âu hiện nay, đặc điểm mà giúp họ hấp thụ vitamin D từ ánh sáng yếu ớt của Mặt Trời phương bắc. Tuy nhiên, trong số 3 gen chính góp phần tạo nên làn da trắng ấy — KITLG, SLC24A5, và SLC45A2 — thì hai cái sau, cũng như gen TYRP1 có liên hệ với màu tóc và màu mắt sáng, mới chỉ trải qua chọn lọc dương tính vào khoảng muộn nhất là 19-11 nghìn năm về trước trong thời kì quá độ đồ đá giữa.[36][37] Biến thể gen liên quan đến mắt xanh ở người hiện nay, OCA2, có vẻ được thừa kế từ một tổ tiên chung cách đây 10–6 nghìn năm sống đâu đó ở Bắc Âu.[38] Thời điểm muộn như vậy dường như là do dân số thấp và/hoặc sự di cư vượt lục địa cần thiết cho sự thay đổi màu da, màu tóc, và màu mắt hiếm khi xảy ra. Riêng gen KITLG trải qua chọn lọc dương tính ở người EEMH (cũng như ở người Đông Á) sớm tận 30.000 năm về trước.[37][39]

Di truyền học

Tuy người hiện đại về mặt giải phẫu đã có mặt bên ngoài châu Phi dường như sớm tận 250.000 năm trước trong các quãng thời gian biệt lập,[40] song các quần thể người ngoại-Phi châu hiện nay bắt nguồn chủ yếu từ cuộc bành trướng diễn ra cách đây 65–55 nghìn năm. Sự biến này vốn phát sinh từ làn sóng mở rộng nội vùng Đông Phi của nhóm đơn bội ADN ty thể L3.[41][42] Phân tích ADN ty thể xác định EEMH là nhánh chị em của các nhóm người Đông Á hậu kỳ đá cũ, theo đó thì sự phân tách giữa hai dòng người có lẽ xảy ra cách đây 50.000 năm.[43]

Các nghiên cứu di truyền ban đầu về EEMH vào năm 2014, cụ thể là mẫu Kostenki-14 37.000 năm tuổi, đã xác định 3 dòng dõi chính mà cũng xuất hiện ở người Châu Âu hiện nay: một dòng liên hệ với tất cả EEMH hậu thế; một dòng "Basal Eurasian" tách khỏi tổ tiên chung của người Âu và người Đông Á trước khi hai nhóm này phân kỳ; và một dòng có liên hệ với di cốt 24.000 năm tuổi tìm thấy tại di chỉ văn hóa Mal'ta–Buret' Siberi (gần Hồ Baikal). Trái lại, Fu et al. (2016), khi đánh giá các mẫu vật Châu Âu cổ hơn, bao gồm hai mẫu Ust'-IshimOase-1 đã 45.000 năm tuổi, không tìm thấy bất cứ dấu vết nào của dòng "Basal Eurasian", và họ cũng không tìm thấy bất cứ bằng chứng nào cho sự xâm nhập gen Mal'ta–Buret' khi xem xét cỡ mẫu EEMH lớn hơn bao quát toàn bộ giai đoạn hậu kỳ đá cũ. Thay vào đó, nghiên cứu cho rằng phần gen lạ kia của người Châu Âu có lẽ bắt nguồn từ sự xâm nhập gen của các quần thể Cận Đông và Siberia diễn ra vào thời kỳ đá mới và đồ đồng (bắt đầu khá muộn vào khoảng 14.000 năm trước). Tất cả các mẫu EEMH, tính từ Kostenki-14 trở đi, đều đóng góp cho bộ gen người hiện nay và gần với người Châu Âu hơn người Đông Á trên phả hệ di truyền. Các mẫu EEMH trước dường như không để lại hậu duệ nào, và dường như cũng chẳng có quan hệ họ hàng, bởi lẽ mỗi mẫu lại đại diện cho một dòng dõi biệt lập khác nhau, hoặc sở hữu thành phần di truyền lai tạp giữa các dòng lớn, hoặc là hậu duệ của các tổ tiên đã phân kỳ từ lâu. Vì vậy, nghiên cứu kết luận rằng, kể từ khoảng 37.000 năm trước trở đi, EEMH đã phát sinh từ một quần thể nền móng duy nhất và bị cô lập sinh sản khỏi phần còn lại của thế giới. Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho biết di cốt Aurignac tại Grottes de Goyet, Bỉ, có quan hệ mật thiết với các cư dân Magdalénien tại Cueva de El Mirón, Tây Ban Nha, hơn là với các cư dân Gravette Đông Âu.[14]